Mở màn chuyên mục mới về thương mại điện tử và các nội dung liên quan

huuquynh

Super Moderator
Thành viên BQT
GẮN KẾT
Xin chào mọi người!
Gần đây, một loạt các cổng thanh toán trực tuyến được ra đời và phát triển rất nhanh chóng. Điều này có vẻ như chúng ta đang rất gần với nhiều thay đổi lớn trong lĩnh vực thương mại điện tử, thanh toán trực tuyến, thanh toán không sử dụng tiền mặt... Đúng hay không? Thời gian sẽ trả lời, nhưng phát triển là con đường chúng ta phải đi cho dù trước mắt còn nhiều hạn chế, cản trở...
Sự phát triển đó, một phần là sự phát triển của công nghệ và công nghệ có đóng vai trò then chốt, nền tảng, bảo đảm cho các vấn đề khác. Là thành viên của HHVN, đa số chúng ta hoạt động trong lĩnh vực công nghệ, và yêu thích công nghệ, kinh doanh... Do đó, việc trao đổi, tìm hiểu, bàn luận là điều chúng ta có thể tham gia đầu tiên. Hy vọng sẽ mang lại cho cộng đồng và các nhà cung cấp dịch vụ những thông tin nhiều chiều, mang tính tham khảo và có giá trị thực tế cao.
Xin giới thiệu khu vực trao đổi mới: "Thương mại điện tử - Thanh toán"!
 
E rất hoan nghênh ý kiến của a Quỳnh mở box trao đổi về vấn đề này. Ước mong là khi nào Việt Nam mình cũng có hệ thống thanh toán ngon hoặc một site E-Commerce như ebay, amazon cho nhà nhà người người mua bán dễ dàng, lúc đấy Ngân hàng hết thu phí giao dịch rút tiền ATM :D

E xin mở đầu bằng một số khái niệm về Thương mại điện tử hay tiếng Anh là E-Commerce

1. E-Commerce là gì?

E-commerce (Electronic commerce - thương mại điện tử) là hình thái hoạt động thương mại bằng phương pháp điện tử; là việc trao đổi thông tin thương mại thông qua các phương tiện công nghệ điện tử mà nói chung là không cần phải in ra giấy trong bất cứ công đoạn nào của quá trình giao dịch. (nên còn được gọi là “thương mại không giấy tờ”)

Thương mại điện tử (còn gọi là thị trường điện tử, thị trường ảo, E-Commerce hay E-Business) là quy trình mua bán ảo thông qua việc truyền dữ liệu giữa các máy tính trong chính sách phân phối của tiếp thị. Tại đây một mối quan hệ thương mại hay dịch vụ trực tiếp giữa người cung cấp và khách hàng được tiến hành thông qua Internat. Hiểu theo nghĩa rộng, thương mại điện tử bao gồm tất cả các loại giao dịch thương mại mà trong đó các đối tác giao dịch sử dụng các kỹ thuật thông tin trong khuôn khổ chào mời, thảo thuận hay cung cấp dịch vụ. Thông qua một chiến dịch quảng cáo của IBM trong thập niên 1990, khái niệm Electronic Business, thường được dùng trong các tài liệu, bắt đầu thông dụn.

Và đây cũng là một khái niệm về nó.

Khó có thể tìm một định nghĩa có ranh giới rõ rệt cho khái niệm này. Khái niệm thị trường điện tử được biết đến lần đầu tiên qua các công trình của Malone, Yates và Benjamin nhưng lại không được định nghĩa cụ thể. Các công trình này nhắc đến sự tồn tại của các thị trường điện tử và các hệ thống điện tử thông qua sử dụng công nghệ thông tin và công nghệ truyền thông. Chiến dịch quảng cáo của IBM trong năm 1998 dựa trên khái niệm “E-Commerce” được sử dụng từ khoảng năm 1995, khái niệm mà ngày nay được xem là một lãnh vực nằm trong kinh doanh điện tử (E-Business). Các quy trình kinh doanh điện tử có thể được nhìn từ phương diện trong nội bộ của một doanh nghiệp (quản lý dây chuyền cung ứng – Supply Chain Management, thu mua điện tử- E-Procurement) hay từ phương diện ngoài doanh nghiệp (thị trường điện tử, E-Commerce,…).

2. Lợi ích của thương mại điện tử (TMĐT)?

* TMĐT giúp cho các Doanh nghiệp nắm được thông tin phong phú về thị trường và đối tác
* TMĐT giúp giảm chi phí sản xuất
* TMĐT giúp giảm chi phí bán hàng và tiếp thị.
* TMĐT qua INTERNET giúp người tiêu dùng và các doanh nghiệp giảm đáng kể thời gian và chí phí giao dịch.
* TMĐT tạo điều kiện cho việc thiết lập và củng cố mối quan hệ giữa các thành phần tham gia vào quá trình thương mại.
* Tạo điều kiện sớm tiếp cận nền kinh tế số hoá.

3. Các công đoạn của một giao dịch mua bán trên mạng?

Gồm có 6 công đoạn sau:

1. Khách hàng, từ một máy tính tại một nơi nào đó, điền những thông tin thanh toán và điạ chỉ liên hệ vào đơn đặt hàng (Order Form) của Website bán hàng (còn gọi là Website thương mại điện tử). Doanh nghiệp nhận được yêu cầu mua hàng hoá hay dịch vụ của khách hàng và phản hồi xác nhận tóm tắt lại những thông tin cần thiết nh mặt hàng đã chọn, địa chỉ giao nhận và số phiếu đặt hàng...
2. Khách hàng kiểm tra lại các thông tin và kích (click) vào nút (button) "đặt hàng", từ bàn phím hay chuột (mouse) của máy tính, để gởi thông tin trả về cho doanh nghiệp.
3. Doanh nghiệp nhận và lưu trữ thông tin đặt hàng đồng thời chuyển tiếp thông tin thanh toán (số thẻ tín dụng, ngày đáo hạn, chủ thẻ ...) đã được mã hoá đến máy chủ (Server, thiết bị xử lý dữ liệu) của Trung tâm cung cấp dịch vụ xử lý thẻ trên mạng Internet. Với quá trình mã hóa các thông tin thanh toán của khách hàng được bảo mật an toàn nhằm chống gian lận trong các giao dịch (chẳng hạn doanh nghiệp sẽ không biết được thông tin về thẻ tín dụng của khách hàng).
4. Khi Trung tâm Xử lý thẻ tín dụng nhận được thông tin thanh toán, sẽ giải mã thông tin và xử lý giao dịch đằng sau bức tường lửa (FireWall) và tách rời mạng Internet (off the Internet), nhằm mục đích bảo mật tuyệt đối cho các giao dịch thương mại, định dạng lại giao dịch và chuyển tiếp thông tin thanh toán đến ngân hàng của doanh nghiệp (Acquirer) theo một đường dây thuê bao riêng (một đường truyền số liệu riêng biệt).
5. Ngân hàng của doanh nghiệp gởi thông điệp điện tử yêu cầu thanh toán (authorization request) đến ngân hàng hoặc công ty cung cấp thẻ tín dụng của khách hàng (Issuer). Và tổ chức tài chính này sẽ phản hồi là đồng ý hoặc từ chối thanh toán đến trung tâm xử lý thẻ tín dụng trên mạng Internet.
6. Trung tâm xử lý thẻ tín dụng trên Internet sẽ tiếp tục chuyển tiếp những thông tin phản hồi trên đến doanh nghiệp, và tùy theo đó doanh nghiệp thông báo cho khách hàng được rõ là đơn đặt hàng sẽ được thực hiện hay không.
7. Toàn bộ thời gian thực hiện một giao dịch qua mạng từ bước 1 -> bước 6 được xử lý trong khoảng 15 - 20 giây.

4. Authorization number là gì?

Đây là mã số xác nhận. Sau khi kiểm tra thẻ tín dụng đã hợp lệ hay chưa, ngân hàng người mua sẽ gởi mã số xác nhận đồng ý chi trả cho doanh nghiệp kèm theo thông số về đơn đặt hàng.

5. PSP là gì?

PSP là viết tắt của các từ Processing Service Provider, tức là nhà cung cấp dịch vụ xử lý thanh toán qua mạng.

6. Merchant Account là gì?

Merchant Account là tài khoản thanh toán của các doanh nghiệp khi tham gia TMĐT mà nó cho phép chuyển tiền vào tài khoản của doanh nghiệp hay hoàn trả lại tiền thu được cho khách hàng, nếu giao dịch bị hủy bỏ vì không đáp ứng được những yêu cầu thỏa thuận nào đó giữa người bán và người mua (chẳng hạn như chất lượng sản phẩm) thông qua bán hàng hoá hoặc dịch vụ trên mạng Internet.

Merchant Account phải được đăng ký tại các ngân hàng/ tổ chức tín dụng cho phép doanh nghiệp nhận được các khoản thanh toán bằng thẻ tín dụng.

7. Monthly fee là gì?

Đây là phí mà doanh nghiệp phải trả cho những khoản liên quan đến dịch vụ chẳng hạn như: bảng kê (ghi những số tiền nhập & xuất ở tài khoản của doanh nghiệp trong một khoảng thời kỳ nhất định: hàng tháng, hàng tuần ...), phí truy cập mạng, phí duy trì dịch vụ thanh toán qua mạng, ...

8. Transaction fee là gì?

Đây là phần phí mà doanh nghiệp phải trả cho trung tâm xử lý thẻ tín dụng qua mạng Internet. Thông thường từ 30 - 50 cent cho mỗi giao dịch.

9. Discount rate là gì?

Đây là phí chiết khấu. Phần giá trị mà doanh nghiệp phải trả cho Ngân hàng thanh toán (Acquirer). Thông thường mức phí này chiếm từ 2,5% đến 5% tổng giá trị thanh toán qua thẻ tín dụng. Phí chiết khấu được tính dựa vào kiểu kinh doanh hàng hoá, dịch vụ trên mạng của Doanh nghiệp và các yếu tố khác (chất lượng hàng hoá, dịch vụ, loại thẻ tín dụng...)
 
10. Search Engine là gì?

Sẽ rất khó khăn cho người sử dụng truy cập vào Internet để tìm kiếm 1 Website có chủ đề phục vụ cho mục đích của mình vì hàng ngày có khoảng hơn 100000 Website mới được đưa lên mạng. Số lượng Website trên mạng Internet hiện nay đã lên tới hơn 5 tỷ Website. Vì vậy, để phục vụ việc tìm kiếm nhanh chóng Website của người sử dụng Internet, Search Engine ra đời.
Search Engine là một thư viện thông tin khổng lồ về các Website, cho phép người sử dụng có thể tìm kiếm các Website cần quan tâm theo 1 chủ đề nào đó căn cứ vào các từ khóa (keywords) mà người đó yêu cầu Search Engine tìm kiếm.
Một số công cụ tìm kiếm mạnh trên thế giới hiện nay: Google.com, Yahoo.com, Altavista.com,...

11. News Letter là gì?

News Letter là dịch vụ miễn phí của 1 Website nào đó, dịch vụ này sẽ gửi tới người sử dụng những bản tin mới nhất về các vấn đề có liên quan đến hoạt động của Website hoặc những vấn đề, tin tức mới nhất trong lĩnh vực mà Website đó tham gia. Bạn chỉ cần đăng ký địa chỉ e-mail của mình tại phần News Letter của Website bạn muốn nhận thông tin, đây là cũng là một dạng Mailing List nhưng bạn không thể gửi mail cho toàn bộ các thành viên trong danh sách mà chỉ có người quản lý Website mới có quyền gửi e-mail tới toàn bộ mọi người tham gia.

12. Kinh doanh trực tuyến là hình thức kinh doanh như thế nào?

Kinh doanh trực tuyến là hình thức kinh doanh qua mạng. Mọi giao dịch được tiến hành trực tiếp trên mạng ví dụ từ việc hỏi hàng đến đặt hàng và thanh toán. Tìm hiểu thêm chi tiết tại http://vnnetsoft.com/e-marketing.php

13. Thương mại điện tử xuất hiện ở Việt Nam từ khi nào?

Việt Nam hoà nhập Internet vào cuối năm 1997, một thời gian sau thì thuật ngữ thương mại điện tử bắt đầu xuất hiện song chưa phát triển.

14. Khi áp dụng Thương mại điện tử thì có chiến lược kinh doanh nào là đúng đắn nhất cho một hãng kinh doanh không?

Không có một kế hoạch nào hoàn toàn đúng đắn cho tất cả các hãng kinh doanh. Nhưng những bước cơ bản thì hoàn toàn giống nhau. Xem kế hoạch 5 bước của chúng tôi.

15. Hình thức kinh doanh thương mại điện tử có dễ áp dụng cho các hãng kinh doanh không?

Còn tùy thuộc vào ngành nghề mà có thể áp dụng Thương mại Điện tử. Thường thì Thương mại Điện tử rất thích hợp cho các ngành trí tuệ, đặc biệt là sản phẩm hoặc dịch vụ có thể số hoá hoặc hiển thị được bằng kỹ thuật số. Nói chung Thương mại Điện tử có thể áp dụng cho hầu hết các hãng kinh doanh nhưng tuỳ thuộc vào mặt hàng kinh doanh mà áp dụng vào giai đoạn thích hợp.

16. Trở ngại lớn nhất để một hãng kinh doanh áp dụng Thương mại điện tử là gì?

Trở ngại lớn nhất là sự do dự. Nếu không quyết tâm thì không bao giờ thành công.

17. Đầu tư cho Thương mại điện tử có tốn kém không?

Tất nhiên đầu tư là phải tốn kém. Nhưng Thương mại Điện tử mang lại những hiệu quả lớn hơn nhiều lần so với chi phí phải bỏ ra nếu bạn biết đầu tư đúng cách. Xem chi tiết tại http://vnnetsoft.com/faq_website.php#9

18. Dùng Thương mại điện tử có phải là giải pháp tối ưu cho cạnh tranh bán hàng không?

Cho đến hiện nay, việc áp dụng Thương mại Điện tử là giải pháp tối ưu trong việc cạnh tranh bán hàng. Bạn không cần mất nhiều thời gian cho việc giới thiệu sản phẩm, dịch vụ của bạn vì khách hàng có thể tìm hiểu trên website của bạn.

Bạn sẽ không cần phải mất thì giờ, chi phí cho việc vận chuyển, thuyết phục khách hàng. Website tự động sẽ giúp bạn có một chính sách chăm sóc khách hàng chu đáo, đây là một trong những yếu tố quan trọng trong việc giữ khách lâu dài. Công việc duy nhất mà bạn phải làm đóa là xây dựng một website có tính tự động hóa cao. Một website đủ mạnh và hiệu quả sẽ giúp bạn qua mặt các đối thủ cạnh tranh, nếu bạn còn do dự, phân vân chưa biết sẽ xây dựng website của mình như thế nào, hãy liên hệ ngay với chúng tôi khi vẫn còn chưa muộn.

19. Khi các hãng kinh doanh áp dụng thương mại điện tử, nếu có cạnh tranh nhau thì sự cạnh tranh đó sẽ diễn ra như thế nào?

Doanh nghiệp của bạn áp dụng Thương mại Điện tử thì doanh nghiệp đối thủ cũng có thể áp dụng Thương mại Điện tử. Cạnh tranh là điều tất yếu trong kinh doanh, không phân biệt bất cứ ở đâu, lúc nào và đối tượng ra sao. Song nếu bạn áp dụng một cách hiệu quả thì chắc chắn bạn sẽ vượt qua đối thủ cạnh tranh. Chúng tôi sẽ giúp bạn có được những thủ thuật và giải pháp tối ưu nhất.

20. Dùng thương mại điện tử trong kinh doanh thì tính bảo mật có được đảm bảo không?

Có nhiều cấp độ bảo mật khác nhau tăng giảm tuỳ theo mức chi phí mà bạn chấp nhận. Nếu doanh nghiệp của bạn tham gia một cách nghiêm túc vào thương mại điện tử thì nên áp dụng chế độ bảo mật tốt nhất.

21. Quảng cáo phân loại là gì?

Quảng cáo phân loại là phương pháp quảng cáo ở các trang phân loại theo loại hình, cho phép người mua và bán đăng quảng cáo theo những nghành nghề đã được phân loại sẵn.

22. Tiếp thị bằng bản tin và bằng các nhóm tin khác nhau như thế nào?

Tiếp thị bằng bản tin là hình thức tiếp thị gửi bản tin cho khách hàng còn tiếp thị bằng nhóm tin là tổ chức những nhóm người cùng quan tâm tới một vấn đề và gửi thông tin cho nhau.

23. Triển khai đại lý trên mạng là như thế nào?

Triển khai đại lý trên mạng là việc sử dụng một phần mềm cho phép bạn mở đại lý qua mạng và theo dõi được đơn đặt hàng của khách hàng bắt nguồn từ đại lý nào.

Nguồn : http://www.vnnetsoft.com/faq_ecommerce.php#1

24. Thương mại điện tử bao gồm:

Khảo hàng trực tuyến (Online shopping): bao gồm các thông tin và hoạt động nhằm cung cấp cho khách hàng thông tin cần thiết để tiến hành kinh doanh với bạn và đưa ra một quyết định mua hàng hợp lý.

Mua hàng trực tuyến (Online purchasing): cơ sở hạ tầng công nghệ để trao đổi dữ liệu và mua sản phẩm trên Internet.

Có nhiều cấp độ thực hiện Thương mại điện tử. Ở cấp độ cơ bản, doanh nghiệp có thể chỉ mới có website trưng bày thông tin, hình ảnh, tìm kiếm khách hàng qua mạng, liên hệ với khách hàng qua email mà thôi. Cấp độ cao hơn thì doanh nghiệp đã có thể thực hiện một số giao dịch trên mạng như cho khách hàng đặt hàng thẳng từ trên mạng, quản lý thông tin khách hàng, đơn hàng bằng cơ sở dữ liệu tự động trên mạng, có thể xử lý thanh toán qua mạng bằng thẻ tín dụng v.v...
 
Thử ngó qua mô hình và sơ qua lịch sử của Ebay

eBay là một trong các mô hình kinh doanh điện tử thành công và có lợi mức lợi nhuận hàng đầu hiện nay. Ý tưởng kinh doanh đến với Pam Omidyar, một nhà sưu tầm đồ cổ, đã được bạn trai của Pam là Pierre Omidyar phát triển thành một mô hình đấu giá trực tuyến khổng lồ.

I.Giải pháp

Năm 1995, Omidyar thành lập một công ty đấu giá với tên gọi AuctionWeb, sau được đổi tên thành eBay với số sản phẩm được đưa lên đấu giá trung bình 500,000/ ngày. Đến nay có khoảng 20 triệu người sử dụng eBay. Hoạt động kinh doanh đầu tiên của eBay là cung cấp một sàn giao dịch điện tử để tiến hành các giao dịch đấu giá C2C. Trong mô hình này, máy tính đảm nhiệm vai trò của người tổ chức đấu giá. Trên eBay, người ta có thể đấu giá hầu như mọi thứ. eBay thu một khoản phí khi đăng tin đấu giá và trị giá các giao dịch đấu giá. Phí đăng thông tin đấu giá cũng được chia theo các mức độ khác nhau, phí cao nhất giành cho các sản phẩm đấu giá được đăng tải trên trang chủ.

Quy trình đấu thầu được bắt đầu khi người bán điền vào form thông tin và đăng tải trên eBay. Người bán cũng phải đặt ra mức giá tối thiểu và thời gian hiệu lực của chào bán. Nếu đấu giá thành công, người mua và người bán có thể thương lượng hình thức thanh toán, giao hàng, bảo hành và các điều khoản khác. eBay đóng vai trò trung gian, qua đó, người mua và bán có thể tiến hành giao dịch.
eBay không tham gia các hoạt động như lưu kho hàng, giao nhận như Amazon.com và các nhà bán lẻ khác. eBay chủ yếu phục vụ các khách hàng cá nhân, tuy nhiên cũng có những dịch vụ mở rộng ra cho các khách hàng là doanh nghiệp.

Năm 2001, eBay bắt đầu tham gia đấu giá các tác phẩm nghệ thuật với www.icollector.comwww.sothebys.com Do không thu được lợi nhuận, năm 2003, eBay và sothebys tách riêng thành hai mảng hoạt động, theo đó eBay quảng bá hoat động đấu giá truyền thống của Sothebys trên Live Auction và đồng thời đẩy mạnh hoạt động đấu giá các đồ cổ và mỹ nghệ.

Bên cạnh đó eBay mở rộng hoạt động ra quốc tế, đến nay có khoảng 31 nước tham gia, trong đó điển hình có Mỹ, Canada, France, Sweeden, Brazil, Anh, Australia, Singapore và Japan. eBay cũng có những sites riêng tại một số nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc và Nhật Bản tại đó các hoạt động hiện nay chiếm 46% doanh số của eBay. Người mua từ hơn 150 nước tham gia các hoạt động của eBay. eBay cũng cho phép các doanh nghiệp tham gia đấu giá các sản phẩm cho cả mô hình B2B và B2C.
eBay đã xây dựng được 60 trung tâm đấu giá tại Mỹ, cho phép người mua có thể tìm những sản phẩm tại các vùng lân cận, thậm chí gặp trực tiếp để tiến hành giao dịch. Bên cạnh đó, eBay cũng có những site đấu giá chuyên ngành như ô tô tại eBay Motors. Giao dịch có thể được thực hiện tại mọi nơi, mọi lúc. Giao dịch thương mại điện tử không dây cũng được triển khai.

Năm 2002, eBay Seller Payment Protection được triển khai để đảm bảo thanh toán được thực hiện an toàn hơn. Người bán được bảo vệ tốt hơn và tránh được các thanh toán bằng thẻ và séc giả. Khi đã thành công và có hàng chục triệu khách hàng, eBay bắt đầu mở rộng hoạt động sang lĩnh vực bán lẻ. Đây có thể là phản ứng trước việc Amazon.com mở dịch vụ đấu giá, những cũng có thể là bước phát triển hợp lý của việc đa dạng hóa hoạt động kinh doanh. Đến cuối năm 2003, eBay cũng đã xây dựng xong một số site chuyên về một số ngành hàng nhất định.

Bên cạnh eBay Motors, half.com và PayPal dần dần được eBay mua lại.
Một mô hình thành công nữa là eBay Stores, tại đó eBay cho các cá nhân và tổ chức thuê lại diện tích trên đó để kinh doanh. Các khách hàng có thể sử dụng diện tích này để mua bán hoặc đấu giá. Năm 2002, eBay giới thiệu dịch vụ Business Marketplace, tại địa chỉ ebay.com/businessmarketplace. Site này tập trung tất cả các đầu mối mua bán của doanh nghiệp trên đó để có doanh nghiệp có thể tìm được mọi thứ mình cần tại một địa điểm.

II.Kết quả

eBay thực sự có tác động lớn đối với hoạt động kinh doanh điện tử. Các mô hình của eBay không chỉ nhằm thu lợi nhuận mà còn xây dựng được một cộng đồng lớn để duy trì các hoạt động . Với tổng số thành viên năm 2004 đạt 125 triệu người, theo báo cáo tài chính của công ty, doanh số bán hàng qua eBay đạt 40 tỷ USD đem lại cho công ty doanh thu khoảng 3 tỷ USD và lợi nhuận khoảng 500 triệu USD.
Có thể thấy, nơi duy nhất hiện nay mọi người đang tiến hành giao dịch thương mại trực tuyến nhiều hơn truyền thống là đấu giá điện tử. Bán lẻ điện tử hiện nay vẫn thấp hơn bán lẻ truyền thống 5%
Sưu tầm từ Internet
 
Lợi ích của Thương mại điện tử :

Thương mại điện tử - một bước tiến thật dài nhưng cực nhanh của quy trình kinh doanh hiện đại. Trong bài này, quý bạn đọc sẽ được tìm hiểu lợi ích mà Thương mại điện tử mang lại.

Lợi ích của thương mại điện tử với doanh nghiệp

- Mở rộng thị trường: Với chi phí đầu tư nhỏ hơn nhiều so với thương mại truyền thống, các công ty có thể mở rộng thị trường, tìm kiếm, tiếp cận người cung cấp, khách hàng và đối tác trên khắp thế giới. Việc mở rộng mạng lưới nhà cung cấp, khách hàng cũng cho phép các tổ chức có thể mua với giá thấp hơn và bán được nhiêu sản phẩm hơn.

- Giảm chi phí sản xuất: Giảm chi phí giấy tờ, giảm chi phí chia xẻ thông tin, chi phí in ấn, gửi văn bản truyền thống.

- Cải thiện hệ thống phân phối: Giảm lượng hàng lưu kho và độ trễ trong phân phối hàng. Hệ thống cửa hàng giới thiệu sản phẩm được thay thế hoặc hỗ trợ bởi các showroom trên mạng, ví dụ ngành sản xuất ô tô (Ví dụ như Ford Motor) tiết kiệm được chi phí hàng tỷ USD từ giảm chi phí lưu kho.

- Vượt giới hạn về thời gian: Việc tự động hóa các giao dịch thông qua Web và Internet giúp hoạt động kinh doanh được thực hiện 24/7/365 mà không mất thêm nhiều chi phí biến đổi.

- Sản xuất hàng theo yêu cầu: Còn được biết đến dưới tên gọi “Chiến lược kéo”, lôi kéo khách hàng đến với doanh nghiệp bằng khả năng đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng. Một ví dụ thành công điển hình là Dell Computer Corp.

- Mô hình kinh doanh mới: Các mô hình kinh doanh mới với những lợi thế và giá trị mới cho khách hàng. Mô hình của Amazon. com, mua hàng theo nhóm hay đấu giá nông sản qua mạng đến các sàn giao dịch B2B là điển hình của những thành công này.

- Tăng tốc độ tung sản phẩm ra thị trường: Với lợi thế về thông tin và khả năng phối hợp giữa các doanh nghiệp làm tăng hiệu quả sản xuất và giảm thời gian tung sản phẩm ra thị trường.

- Giảm chi phí thông tin liên lạc:

- Giảm chi phí mua sắm: Thông qua giảm các chi phí quản lý hành chính (80%); giảm giá mua hàng (5-15%)

- Củng cố quan hệ khách hàng: Thông qua việc giao tiếp thuận tiện qua mạng, quan hệ với trung gian và khách hàng được củng cố dễ dàng hơn. Đồng thời việc cá biệt hóa sản phẩm và dịch vụ cũng góp phần thắt chặt quan hệ với khách hàng và củng cố lòng trung thành.

- Thông tin cập nhật: Mọi thông tin trên web như sản phẩm, dịch vụ, giá cả... đều có thể được cập nhật nhanh chóng và kịp thời.

- Chi phí đăng ký kinh doanh: Một số nước và khu vực khuyến khích bằng cách giảm hoặc không thu phí đăng ký kinh doanh qua mạng. Thực tế, việc thu nếu triển khai cũng gặp rất nhiều khó khăn do đặc thù của Internet.

- Các lợi ích khác: Nâng cao uy tín, hình ảnh doanh nghiệp; cải thiện chất lượng dịch vụ khách hàng; đối tác kinh doanh mới; đơn giản hóa và chuẩn hóa các quy trình giao dịch; tăng năng suất, giảm chi phí giấy tờ; tăng khả năng tiếp cận thông tin và giảm chi phí vận chuyển; tăng sự linh hoạt trong giao dịch và hoạt động kinh doanh.

Lợi ích đối với người tiêu dùng

- Tùy từng nhóm khách hàng: Nhiều lựa chọn về sản phẩm, dịch vụ hơn

- Vượt giới hạn về không gian và thời gian: Thương mại điện tử cho phép khách hàng mua sắm mọi nơi, mọi lúc đối với các cửa hàng trên khắp thế giới

- Nhiều lựa chọn về sản phẩm và dịch vụ: Thương mại điện tử cho phép người mua có nhiều lựa chọn hơn vì tiếp cận được nhiều nhà cung cấp hơn

- Giá thấp hơn: Do thông tin thuận tiện, dễ dàng và phong phú hơn nên khách hàng có thể so sánh giá cả giữa các nhà cung cấp thuận tiện hơn và từ đó tìm được mức giá phù hợp nhất

- Giao hàng nhanh hơn với các hàng hóa số hóa được: Đối với các sản phẩm số hóa được như phim, nhạc, sách, phần mềm.... việc giao hàng được thực hiện dễ dàng thông qua Internet

- Thông tin phong phú, thuận tiện và chất lượng cao hơn: Khách hàng có thể dễ dàng tìm được thông tin nhanh chóng và dễ dàng thông qua các công cụ tìm kiếm (search engines); đồng thời các thông tin đa phương tiện (âm thanh, hình ảnh)

- Đấu giá: Mô hình đấu giá trực tuyến ra đời cho phép mọi người đều có thể tham gia mua và bán trên các sàn đấu giá và đồng thời có thể tìm, sưu tầm những món hàng mình quan tâm tại mọi nơi trên thế giới.

- Cộng đồng thương mại điện tử: Môi trường kinh doanh TMĐT cho phép mọi người tham gia có thể phối hợp, chia xẻ thông tin và kinh nghiệm hiệu quả và nhanh chóng.

- “Đáp ứng mọi nhu cầu”: Khả năng tự động hóa cho phép chấp nhận các đơn hàng khác nhau từ mọi khách hàng

- Thuế: Trong giai đoạn đầu của TMĐT, nhiều nước khuyến khích bằng cách miến thuế đối với các giao dịch trên mạng

Lợi ích đối với xã hội

- Hoạt động trực tuyến: Thương mại điện tử tạo ra môi trường để làm việc, mua sắm, giao dịch... từ xa nên giảm việc đi lại, ô nhiễm, tai nạn

- Nâng cao mức sống: Nhiều hàng hóa, nhiều nhà cung cấp tạo áp lực giảm giá do đó khả năng mua sắm của khách hàng cao hơn, nâng cao mức sống của mọi người

- Lợi ích cho các nước nghèo: Những nước nghèo có thể tiếp cận với các sản phẩm, dịch vụ từ các nước phát triển hơn thông qua In- ternet và TMĐT. Đồng thời cũng có thể học tập được kinh nghiệm, kỹ năng... được đào tạo qua mạng.

- Dịch vụ công được cung cấp thuận tiện hơn: Các dịch vụ công cộng như y tế, giáo dục, các dịch vụ công của chính phủ... được thực hiện qua mạng với chi phí thấp hơn, thuận tiện hơn. Cấp các loại giấy phép qua mạng, tư vấn y tế.... là các ví dụ thành công điển hình.

Nguồn tin: eCommerce World Book
 
Các bài post của e cũng chỉ là tìm thông tin thôi, nhưng e muốn tập hợp lại để dễ tham khảo :)

Mô hình thanh toán P2P phần 1:

Ngay trong giai đoạn đầu của phong trào dot-com, khi người ta khăng khăng rằng Internet sẽ cách mạng hóa các ngành xuất bản, phát thanh truyền hình hay bán lẻ, thì lợi ích chính của World Wide Web vẫn là liên kết các cá nhân với nhau.

Mặc dù nhiều công ty và các nhà đầu tư phiêu lưu cho rằng Internet sẽ chiếm vị trí của báo chí, truyền hình hay là trung tâm mua sắm lớn nhất của thế giới, trên thực tế, môi trường này có thể chỉ gần như là điện thoại mà thôi... Những ứng dụng thành công nhất trên mạng (thư điện tử, chating, môi giới...) đều không phải là giúp các tập đoàn lớn chuyển thông tin đến mọi người mà chính là giúp các cá nhân truyền thông tin cho nhau.

Các công ty như eBay, Match.com, Classmates Online đã vượt qua được thời kỳ xuống dốc của phong trào dot-com bởi họ đã hiểu được Internet trước hết là môi trường giao tiếp giữa con người với con người. Họ tạo những điều kiện thuận lợi giúp mọi người liên hệ với nhau. Trong hàng loạt các dịch vụ P2P, có một công ty đã tạo được thành công độc nhất vô nhị bằng việc tạo tiện ích cho hai người bình thường có thể làm trên mạng việc mà phần lớn mọi người đang thực hiện ngoài mạng: thanh toán tiền mua hàng hóa hay dịch vụ.

Điều kỳ diệu mà giản đơn của PayPal là cung cấp dịch vụ cho phép hai người trao đổi tiền gần như trực tiếp, theo cách rất đảm bảo và ẩn danh. Đó không chỉ là việc mở cửa cho một nền kinh tế kiểu cá nhân với cá nhân qua mạng, mà còn khai phá ra một cách làm mới cho các nhà buôn và doanh nghiệp nhỏ, những người không có khả năng lập một tài khỏan thương mại khá tốn kém với các công ty thẻ tín dụng lớn.

Ebay đã mua PayPal năm 2002 với giá 1,5 tỷ USD, một hành động được coi là cuộc "kết hôn tự nhiên" của hai kẻ quyền lực trong dịch vụ P2P. Hơn 60% hoạt động kinh doanh của PayPal là những khoản thanh toán của người mua hàng trong chợ đấu giá Ebay.

Số liệu thống kê của PayPal là một bằng chứng đáng kinh ngạc về sức mạnh của mô hình P2P trên mạng. Đến cuối tháng 6 năm 2003, công ty này đã có hơn 31 triệu người sử dụng, so với con số 27 triệu của 3 tháng trước đó, và số tiền giao dịch lên đến 2,8 tỷ USD trong 1 quý, tương đương 360 USD/giây. Mặc dù một số công ty dịch vụ tài chính như dịch vụ C2it của Citibank, hay thậm chí AOL đều đã tung ra các giải pháp thanh toán P2P, nhưng PayPal vẫn thành công vượt xa các đối thủ lớn.

Với những người sử dụng chính thống, PayPal rất tiện ích vì nó thay thế cho việc đi đến ngân hàng. Công nghệ cơ bản của việc chuyển tiền thực ra hết sức đơn giản. Để thực hiện các khoản thanh toán của Ebay, vốn là hoạt động chính của PayPal, hai trang chỉ liên kết với số dữ liệu trao đổi rất ít. Nút nhấn Pay Now trên trang đấu giá hàng hóa sẽ dẫn người mua đến một mẫu kê khai chứa các thông tin về người bán và hàng hóa. Chỉ trong giai đoạn cuối cùng, khi cần phải thanh toán, người mua mới được chuyển sang trang PayPal, nơi Ebay đã gửi kèm theo các thông tin chứng nhận về người bán, mã hàng và các miêu tả khác.

PayPal giúp những nhà kinh doanh nhỏ không đủ khả năng mở tài khoản thương mại với các công ty thẻ tín dụng lớn một phương tiện mới để chấp nhận thanh toán qua mạng

Một trong những điều hấp dẫn của PayPal là ẩn danh người thanh toán: một người mua có thể thanh toán cho rất nhiều người và các công ty khác nhau mà không cần gửi số thẻ tín dụng hay thông tin cá nhân cho bất kỳ ai ngoài PayPal. "Khả năng cung cấp hệ thống thanh toán an tòan và ẩn danh là một bí mật của PayPal", Giám đốc công nghệ Chuck Geiger nói, "Khi anh thanh toán, tôi không cần biết anh trả tôi như thế nào. Tôi chỉ cần biết là tài khoản của tôi đã có báo có".

Công nghệ hỗ trợ phía sau (back-end) để xử lý giao dịch chuyển tiền gần như dựa theo các mạng lưới sẵn có của các công ty thẻ tín dụng và giao dịch ngân hàng. Với các giao dịch ngân hàng, PayPal cũng sử dụng mạng lưới thanh toán liên ngân hàng như phần lớn các ngân hàng và sử dụng hệ thống căn bản về thanh toán thẻ tín dụng do các hiệp hội thẻ tín dụng thiết lập. Ông Geiger cho biết "Bí quyết của PayPal là tận dụng những công nghệ thực tiễn nhất, khiến người dùng bị hấp dẫn bởi các chức năng toàn diện từ hệ thống có vẻ tầm thường". "Các ứng dụng với khách hàng chạy trên phần cứng với hệ điều hành Linux, và dữ liệu được lưu trữ toàn bộ trong cơ sở dữ liệu Oracle". Công ty sử dụng hàng trăm máy chủ tại hai trung tâm dữ liệu ở San Jose và Sacramento.

PayPal đã tăng trưởng cực kỳ nhanh chóng, vì vậy đáp ứng được những đòi hỏi về cả phần cứng và nhân lực là một trong những vấn đề thách thức ngay từ khi công ty đi vào hoạt động 4 năm trước đây. Geiger thừa nhận rằng, trang web đã từng có một số vấn đề, vì vậy kiến trúc của trang đã được xây dựng lại để có thể cô lập các lỗi được hiệu quả hơn. Thực ra mà nói, toàn bộ trang của PayPal dựa trên cái mà Geiger miêu tả là "một cơ sở hạ tầng bảo mật hỗn hợp với các tường lửa và các phương pháp mã hóa".

Số lượng nhân viên đông đảo và sự phức tạp về công nghệ của PayPal là nhằm mục đích hạn chế những trò gian lận. Theo ông Geiger, "có thể mặt mạnh nhất trong hệ thống của chúng tôi là khả năng chống gian lận, và tính năng xử lý gian lận tức thời (real-time). Tổng số nhân viên có chức năng hỗ trợ khách hàng, đảm bảo sự tin cậy là trên 800 người mà chỉ tập trung vào việc chống gian lận".

Trong việc thiết lập một hệ thống thanh toán trực tuyến thành công, vấn đề làm sao tạo được các biện pháp bảo mật vững chắc khó khăn hơn nhiều so với việc so với việc làm cho hệ thống đó thuận tiện và dễ dàng cho người dùng.

Từ khi sáp nhập với Ebay, hệ thống thanh toán của PayPal đã xuất hiện trên hơn 70% các trang web bán đấu giá của Ebay. Hiện nay PayPal đang xử lý số tiền thanh toán lên đến 360 USD/giây

Được dẫn dắt bởi người đồng sáng lập Max Levchin, một nhóm 30 kĩ sư chủ chốt (nhiều người trong số họ vẫn làm việc trong công ty) đã lập trình và bảo trì phần mềm PayPal gốc.

Hiện nay, Levchin đã rời khỏi PayPal nhưng anh đã rất nổi tiếng qua việc phát minh ra các thuật toán bảo mật và chống gian lận giúp công ty vượt qua rất nhiều đối thủ lớn trong thời gian trước khi xảy ra sự suy sụp của phong trào dot.com. Là một người viết mật mã, Levchin vừa tròn 23 tuổi khi đồng sáng lập công ty vào năm 1998 cùng với Peter Thiel, nguyên giám đốc điều hành dịch vụ tài chính.

Công ty chỉ tập trung chủ yếu vào việc làm cho các giao dịch kiểu P2P sử dụng được các mạng lưới giao dịch ngân hàng và thẻ tín dụng điện tử sẵn có, kiểm soát các hiện tượng gian lận. Nhưng điều chủ yếu nhất vẫn là tìm ra một phần mềm căn bản, một tập hợp các thuật toán làm việc thời gian thực để phát hiện nhanh các hiện tượng gian lận trong hệ thống.

Được đặt tên là Igor sau sự kiện tên tội phạm người Nga bị tóm năm 2000 nhờ sự giúp đỡ của PayPal, những thuật toán này là độc quyền của công ty và được viết bằng C++. Chức năng cơ bản của chúng là để kiểm tra tính bất thường ở một loạt các khâu kiểm tra trong một giao dịch. "Bất cứ lúc nào bạn truy nhập vào đây", Geiger nói "Các điểm kiểm tra này sẽ xem bạn là ai, bạn muốn chuyển tiền cho ai và từ đâu. Sau khi đã kiểm tra toàn bộ, phần mềm này sẽ quyết định theo các thuật toán trên xem giao dịch đó có hiện tượng nghi vấn hay không". Quá trình này gần giống với hệ thống kiểm tra gian lận thẻ tín dụng, theo đó so sánh lịch sử mua bán trước đây của khách hàng để nhận dạng một giao dịch thanh toán quá lớn hay một đợt mua sắm nhiều bất thường.

Cũng quan trọng như công nghệ, sự tác động của con người cũng là một vòng bảo vệ thứ hai để hạn chế sự lừa gạt. Bất cứ khi nào phần mềm nghi ngờ có hiện tượng gian lận, nó sẽ chuyển giao dịch đó cho một nhân viên để kiểm tra bằng cách liên lạc trực tiếp với khách hàng. Đây cũng là cái mà Geiger gọi là kiểm soát kiểu "gần như tức thời", điều khiến PayPal phải thuê một số lượng lớn nhân viên được đào tạo chuyên để phát hiện gian lận.

(còn tiếp ...)
 
Mô hình thanh toán P2P phần 2

Hiện nay, thách thức trước mắt về công nghệ với PayPal là duy trì vững chắc sự thành công quá nhanh của nó với dịch vụ P2P và những giao dịch nhỏ, để trở thành một giải pháp thanh toán trực tuyến cho các nhà buôn lớn hơn. Bước tiến tiếp theo về công nghệ của PayPal sẽ không hướng tới việc phát triển các tính năng mới trong hệ thống bởi thực ra, sự đơn giản rõ ràng của hệ thống chính là chìa khóa cho sự thành công của PayPal.

Thay vì đó, mục đích tới đây của PayPal là làm thế nào để các nhà buôn lớn tiếp cận với hệ thống thanh toán này. Dự án mới này sẽ nhằm xây dựng một tập hợp hệ giao tiếp lập trình ứng dụng (API) của PayPal để các đối tác có thể viết chương trình và thiết kế trang Web có tương tác với dữ liệu của PayPal thông qua XML. Việc cho phép bên thứ ba tích hợp các site của họ với hệ thống của PayPal là một phần trong chiến lược quan trọng của công ty, nhằm để thu hút các tên tuổi lớn sử dụng PayPal làm hệ thống thanh toán của mình.

Nhân tố hỗ trợ phía sau thành công của PayPal thực ra chỉ là một công thức đơn giản: hãy để các khách hàng nặng túi (nhà buôn) trả tiền cho dịch vụ, còn tất cả mọi người thì sử dụng dịch vụ miễn phí, như vậy những khách hàng miễn phí đó sẽ làm công việc marketing theo kiểu dây chuyền cho những người mua hàng cùng đăng ký sử dụng PayPal.

Hầu hết doanh thu của PayPal là từ các giao dịch tài khoản và những người cung cấp hàng hoá dịch vụ thường xuyên qua PayPal. PayPal thu từ 2,2 đến 2,7% trên giá bán cộng với phí giao dịch là 30 cent. Mặc dù các cá nhân giữ tiền trong tài khoản tại PayPal, nhưng công ty không phải là ngân hàng do không tính lãi suất của các khoản tiền này. Trên thực tế, tình hình tài chính và triển vọng kinh doanh của PayPal là rất tốt, công ty đã bước vào thị trường chứng khoán khá thành công từ tháng 2/2002, giai đoạn tồi tệ nhất đối với bất kì công ty mới niêm yết nào kinh doanh trong lĩnh vực Internet.

Tuy nhiên, ưu thế vượt trội của công ty trong thanh toán P2P lại phụ thuộc khá nhiều vào sự thành công của việc marketing theo mạng lưới. Trước đây, PayPal đã trả cho người sử dụng từ 5 đến 10 USD nếu họ tìm thêm được khách hàng, bạn bè đăng ký sử dụng PayPal. Khi ngày càng nhiều khách hàng nhận ra tính thuận tiện, an toàn của dịch vụ này, họ đã lôi kéo rất nhiều người khác tham gia vào hệ thống PayPal trên toàn cầu, và tốc độ hiện nay đã đạt 28.000 tài khoản mới mỗi ngày.

Không giống như hầu hết các trang web kinh doanh khác, công ty chỉ dựa vào marketing theo kiểu truyền miệng chứ không thực hiện các chiến dịch quảng cáo rầm rộ, khoa trương để xây dựng thương hiệu của riêng mình từ con số 0.

Một phần vì PayPal, một phần vì PayPal đang đi tiên phong trong mô hình giao dịch tiền tệ hoàn toàn mới, nên công ty luôn bị các ngân hàng và các nhà chức trách "để ý" kỹ lưỡng. Một vài nhà điều tra đã dò xét xem các khỏan tiền do ai chuyển cho ai, và cho những hàng hoá, dịch vụ gì. Do PayPal cho phép chuyển tiền chỉ đơn thuần giữa hai người với nhau, nên hệ thống thanh toán này cũng đã bị sử dụng cho một số hoạt động đáng ngờ. Trên thực tế, năm 2002, Văn phòng Luật sư của Mỹ đã buộc tội PayPal vi phạm điều 9/11 Luật Patriot (ái quốc) và Luật Kiểm soát cá cược do đã chủ ý cho phép giao dịch thanh toán cho những hoạt động đánh bạc ở nước ngoài. Việc thanh toán cho đánh bạc trên mạng đã chấm dứt kể khi eBay tiếp quản PayPal chính thức vào tháng 10-2002, nhưng đến lúc đó chính PayPal thừa nhận rằng những giao dịch này đóng góp đến 6% thu nhập của họ.

Khi theo dõi những kẻ xấu sử dụng PayPal để thanh toán cho những hoạt động ngoại tuyến bất hợp pháp, Geiger thừa nhận "Ngăn chặn triệt để loại hành vi này là việc rất khó. Chúng tôi đã có những thuật toán để tìm kiếm chúng. Chẳng hạn nếu như bạn chuyển tiền trong nhiều tài khoản khác nhau, điều đó sẽ gây nghi vấn và cơ quan luật pháp yêu cầu chúng tôi phải theo dõi ngay, bất cứ những gì tìm thấy đều phải báo cáo về cơ sở dữ liệu liên bang".

Và cũng do PayPal thường xuyên có tài khoản của người sử dụng cũng như thông tin về thẻ tín dụng, đây sẽ là nơi hấp dẫn với những kẻ bất lương. Một trò lừa đảo phổ biến trong năm nay là gửi email có logo và địa chỉ phản hồi tương tự như PayPal, trong đó thông báo rằng tài khỏan của họ đã bị khóa và họ phải gõ lại các thông tin về tài khỏan ngân hàng và thẻ tín dụng của mình.

Bên cạnh việc thông báo và cam kết với người dùng rằng công ty không bao giờ yêu cầu khách hàng cung cấp thông tin ở một nơi nào ngoài trang web của chính công ty, PayPal cũng đang chống lại những trò lừa bịp bằng việc báo cho người sử dụng biết ngay khi có ai đó khả nghi truy nhập vào tài khoản của họ. PayPal là địa chỉ thường xuyên bị các hacker tấn công, trong đó có các nhóm tội phạm từ Nigeria, Nga và Indonesia, những kẻ tìm cách tạo ra những tài khoản ảo và sử dụng số thẻ tín dụng bị lấy cắp trong hệ thống.

Mặc dù đã đạt được thành công tuyệt đối, PayPal vẫn là một công ty gây nhiều tranh cãi trong thế giới Web. Hiện PayPal đang phải chịu sự tấn công và chê trách từ cả hai phía: phía những kẻ lừa đảo đang cố khai thác công nghệ của PayPal bất hợp pháp và phía một số người dùng nghi vấn về các biện pháp bảo mật, chống gian lận của PayPal.

Một vài trang web phản đối như http://www.paypalsucks.com/http://www.paypalwarning.com/ đã thu thập rất mau lẹ những câu chuyện đáng sợ, những lời phàn nàn và khiếu kiện chống lại PayPal. Thực ra, sự khéo léo và nguy hiểm của PayPal là ở chỗ nó cân bằng 2 nhu cầu thường xung khắc nhau của thị trường trao đổi trực tuyến: cởi mở, dễ dàng truy nhập để bất cứ ai cũng có thể tự tạo tài khoản, thanh toán và nhận thanh toán trong vài phút; nhưng cũng cần có các biện pháp chống gian lận chặt chẽ, để đảm bảo rằng các tài khỏan được tạo ra dễ dàng này là xác thực, và các giao dịch là hợp pháp.

PayPal vẫn tiếp tục lớn mạnh bất chấp sức ép từ phía bọn tội phạm và người tiêu dùng. Cùng với Google và chính eBay, PayPal là một trong số rất ít các công ty dot-com đang ngày càng hùng mạnh. Trong quý 1 năm 2003, trước khi được bán cho Ebay, PayPal đã có lợi nhuận đáng kể, doanh thu tăng 248% so với cùng kì năm 2002. Hiện nay, hơn 70% những cuộc đấu giá của eBay đều có mục cho phép thanh toán thông qua PayPal.
Trong khi những công ty dot-com thành công nổi tiếng như Amazon.com và bản thân eBay đang đi dần vào ổn định, PayPal là một trong những câu chuyện thần kì sau cùng về Web mà sự thành công chưa hề có dấu hiệu dừng lại

hết P2P
 
Sử dụng chữ kí điện tử trong thanh toán trực tuyến

Khái quát về chữ kí điện tử

Chữ ký điện tử là thuật ngữ chỉ mọi phương thức khác nhau để một cá nhân, đơn vị có thể "ký tên" vào một dữ liệu điện tử, thể hiện sự chấp thuận và xác nhận tính nguyên bản của nội dung dữ liệu đó.
Chữ ký điện tử rất đa dạng, có thể là một tên hoặc hình ảnh cá nhân kèm theo dữ liệu điện tử, một mã khoá bí mật, hay một dữ liệu sinh trắc học (chẳng hạn như hình ảnh mặt, dấu vân tay, hình ảnh mống mắt...) có khả năng xác thực người gửi.
Trong giao dịch điện tử hiện nay trên thế giới, chữ ký số là hình thức chữ ký điện tử phổ dụng nhất. Chữ ký số bao gồm một cặp mã khoá, gồm khoá bí mật và khoá công khai. Trong đó, khoá bí mật được người gửi sử dụng để ký (hay mã hoá) một dữ liệu điện tử, còn khoá công khai được người nhận sử dụng để mở dữ liệu điện tử đó và xác thực danh tính người gửi.

Khái niệm chữ ký số, hay các phương thức xác thực danh tính nói chung, được thực hiện trong các giao dịch điện tử được gọi chung là khái niệm chứng thực số (Digital Certificate). Chứng thực số bao hàm cả hình thức xác thực của một cá nhân như chữ ký, xác thực của tổ chức như các website (là thật, không phải giả mạo), dịch vụ thương mại điện tử, kể cả chứng thức tính nguyên bản của các phần mềm.
 
Khó khăn trong vấn đề thanh toán trực tuyến ở Việt Nam

Đã có rất nhiều các đề án nghiên cứu và tìm những cách thức thực hiện phù hợp nhất để có thể thanh toán trực tuyến được thực hiện, thậm chí đem ra thử nghiệm. Thế nhưng khi áp dụng vào thực tế, mô hình thanh toán trực tuyến lại không dễ thực hiện chút nào với rất nhiều khó khăn cần giải quyết.

Khó khăn nhất là quyết toán thuế!

Để có thể cung cấp thử nghiệm dịch vụ, VietnamAirlines đã có tới vài lần thay đổi thời điểm thực hiện vì lý do không thể vượt qua được các thủ tục về thuế đối với hình thức thanh toán trực tuyến sẽ áp dụng. Trong một hội thảo về thanh toán trực tuyến mới đây do Vụ Thương mại Điện tử thuộc Bộ Thương mại tổ chức, ông Tô Đình Dũng - Giám đốc Trung tâm Tin học của Vietnam Airlines đã cho rằng bất kỳ doanh nghiệp nào hàng năm cũng chắc chắn rất vất vả với việc quyết toán thuế và trong số những chứng từ đó, khó quyết toán nhất là những chứng từ có liên quan tới công nghệ. ông Dũng, việc thanh toán trực tuyến này có thực hiện được hay không sẽ là vấn đề chứng từ thanh toán nào ứng với nó sẽ được công nhận và không được công nhận.

Thừa nhận cái khó này của VietnamAirlines, đại diện của Tổng cục Thuế mong có sự chia sẻ của các doanh nghiệp. họ, việc quản lý chứng từ của Tổng cục Thuế trong thời gian qua cũng gặp nhiều khó khăn. Việc quản lý hoá đơn Việt so với thế giới có những đặc điểm rất khác biệt. Nếu như trên thế giới, nhất là các nước phát triển hoá đơn chỉ quan trọng với nội dung thông tin trong đó thì với một số nước châu Á trong đó có Việt sử dụng quản lý hoá đơn hình thức rất chặt từ mẫu tới việc đăng ký… Tuy vậy, thời gian tới, việc giải quyết bài toán chứng từ trong thanh toán điện tử trực tuyến sẽ được Tổng cục Thuế áp dụng theo thông tư mới và cũng đang xây dựng nhữnh đề án quản lý hoá đơn chứng từ hiện nay sang theo hình thức như các nước phát triển. Lộ trình thực hiện sẽ trong một vài năm nữa. Còn hiện giờ, để chấp nhận vé điện tử, Tổng cục Thuế đã đề nghị VietnamAirlines phát hành thêm phiếu thu. Đấy là những bước mà họ cho rằng cũng đã chia sẻ với cái khó của VietnamAirlines.

Tuy nhiên, không chỉ có VietnamAirlines mới gặp khó trong vấn đề thanh toán điện tử. Thực tế hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp gặp phải những khó khăn khác cũng bắt nguồn từ nhu cầu được thanh toán trực tuyến. Ngoài vấn đề thuế, theo Vụ TMĐT buộc Bộ Thương mại, có thể kể ra hàng loạt những trở ngại khác khiến thanh toán trực tuyến cho đến giờ này vẫn chừa phát triển đó là nhận thức của người dân và doanh nghiệp về TMĐT còn thấp, Hệ thung thanh toán điện tử còn bất cập, Vấn đề an ninh giao dịch chưa đảm bảo, môi trường pháp lý chưa hoàn thiện, môi trường xã hội và tập quán kinh doanh chưa tương thích, nguồn nhân lực CNTT còn thiếu và yếu về kỹ năng và cuối cùng là hạ tầng CNTT và viễn thông chưa đáp ứng được yêu cầu.

Dường như với từng ấy trở ngại quả thực khó mà làm cho thanh toán trực tuyến của Việt có thể được ứng dụng rộng rãi trong một sớm một chiều.

Nguồn
http://thietkewebcongty.wordpress.com/2008/10/14/thanh_toan_truc_tuyen_cua_viet_nam-2/
 
các hình thức thanh toán online

hanh toán online ở Việt Nam hoàn toàn mới đang ở giai đoạn khởi động. Điều này làm hạn chế thương mại điện tử ở Việt Nam rất nhiều. Vì thế những merchant, những người tham gia vào các hoạt động kinh doanh trực tuyến bắt buộc phải tự tìm cho mình những phương thức thanh toán online để đáp ứng nhu cầu mua bán của mình. Tiếc thay, không có nhiều loại hình thanh toán quốc tế hỗ trợ cho Việt Nam nói riêng và khu vực các nước châu Á chậm phát triển nói chung.
Có thể chia các phương thức thanh toán Online của những merchant thường sử dụng thành 2 loại:
Loại thứ nhất sử dụng các phương thức thanh toán được miễn phí khi đăng ký và có tính chất như ví điện tử (đối với khách hàng). Loại thứ hai là các phương thức thanh toán phải mất phí đăng ký ban đầu và có tính chất như cổng thanh toán điện tử.

Loại hình thứ nhất, rõ ràng phổ biến nhất ở khu vực á châu cũng như toàn thế giới là Paypal. Paypal ra đời từ 10 năm nay, có liên kết chặt chẽ với mạng lưới ngân hàng Mỹ (Bank US), lại có sàn giao dịch điện tử eBay đứng đằng sau. Tuy nhiên điểm dở nhất của Paypal là tùy từng quốc gia khác nhau lại có giới hạn khác nhau trong tính năng nhận tiền (receive) và rút tiền về (withdraw). Việt Nam rơi vào nhóm hạn chế nhất khi Paypal chỉ dùng để thanh toán, chứ không cho phép nhận về. Điều này gây khó kahưn cho các merchant rất nhiều. (Xem thêm Các cách rút tiền từ Paypal )
Vài năm trước một phương thức thanh tóan dành cho các nước Châu Á ra đời, đó là AsianPay. Tuy nhiên phương thức thanh toán này còn ít phổ biến, dường như người ta chỉ biết tới nó qua chương trình huy động vốn lãi suất cao của AsianPay (HYIP).

Với phương thức thanh toán kiểu thứ hai, kiểu của cổng thanh tóan. Có lẽ nổi tiếng và thông dụng nhất là 2CheckOut và WorldPay. Với 2 hình thức thanh toán này, khách hàng có thể dùng Credit Card, thanh toán trực tiếp và giao dịch được tiến hành ngay lập tức. Khoản tiền này sẽ được chuyển vào account của Merchant từ đó tiền sẽ được merchant rút về việt nam bằng nhiều cách (bankwire, ATM, .v.v.). Gần đây 2CO ngày càng phát triển và mở rộng tính năng tiện ích, cũng như hỗ trợ thanh toán nhiều loại hình payment khác nhau (đặc biệt là nhận thanh toán cả Paypal). Vì vậy 2CO gần như là sự lựa chọn số một của các merchant việt nam trong thời điểm này. Tuy nhiên việc phải đầu từ vài chục đô đăng ký mở tài khoản merchant (phí khởi tạo) cũng như phí hàng tháng là một khoản cần cân nhắc trong chi phí vận hành một website kinh doanh trực tuyến và thương mại điện tử.

Nguồn
http://egoldviet.com/e-payment/thanh-toan-truc-tuyen-lua-chon-nao-cho-cac-merchant-viet-nam.html
 
Quy trình thanh toán trực tuyến bằng thẻ tín dụng

Khi bạn bán sản phẩm hoặc dịch vụ trên mạng Internet, bạn cần cung cấp cho người mua một phương án thanh toán trực tuyến trên mạng bên cạnh các phương án thanh toán khác.

Cách phổ biến nhất trong thanh toán trực tuyến hiện nay là sử dụng thẻ tín dụng Credit card của các hãng Visa, Master, American Express, JBC...được các ngân hàng phát hành (Issuer).

Trước hết, nếu bạn là người bán (merchant), bạn phải tạo lập một tài khoản bán hàng trên mạng (Internet merchant account). Tài khoản bán hàng này bạn có thể đăng ký với Ngân hàng của bạn nếu ngân hàng có dịch vụ này hoặc với các dịch vụ cung cấp phần mềm xử lý quá trình thanh toán trực tuyến như Cybercash, Paymentnet, Merchantwarehouse…

Các ngân hàng hoặc nhà cung cấp dịch vụ khi cấp cho bạn Merchant account sẽ được gọi là Acquirer, chịu trách nhiệm xử lý thông tin thẻ trong quá trình thanh toán.

Trên website bán hàng, người bán phải trang bị những tính năng sau:

- Shopping cart (giỏ mua hàng): có thể do nhà cung cấp dịch vụ thiết kế website xây dựng hoặc phần mềm có sẵn bán trên mạng. Người mua hàng khi đang xem hàng trên website có thể chọn mua sản phẩm bằng cách nhấn nút “Buy”, mặt hàng sẽ được lưu lại trong giỏ hàng, người mua có thể chọn nhiều mặt hàng, khi quyết định mua hàng có thể xem giỏ hàng để xem lại các mặt hàng, thay đổi số lượng hàng, tính tiền. Để kết nối được với dịch vụ thanh toán qua mạng, shopping cart cần được xây dựng để đạt một số tiêu chuẩn tích hợp.

- Payment gateway: là một phần mềm dùng để xử lý việc thanh toán của thẻ tín dụng bao gồm việc xác nhận thông tin của thẻ tín dụng là có thật và hợp lệ, thực hiện các lệnh chuyển tiền. (công nghệ tốt sẽ hạn chế rủi ro của thẻ tín dụng giả mạo)

Hai tính năng trên của website phải được thực hiện trên máy chủ an toàn (secure server) để đảm bảo tính bảo mật của các thông tin về thẻ tín dụng khi nhập trên website và trong quá trình thực hiện giao dịch.

Qui trình thanh toán được thực hiện như sau:

- Người mua có thẻ tín dụng (Cardholder) khi quyết định mua hàng sẽ nhập các thông tin về thẻ tín dụng của mình như: số thẻ, mã số an toàn, thời hạn của thẻ, họ và tên chủ sở hữu, địa chỉ thanh toán trên website, những thông tin này sẽ được chuyển đến cho ngân hàng hay nhà dịch vụ cung cấp payment gateway là các Acquirer. Acquirer sẽ gửi thông tin về thẻ tới dịch vụ cung cấp thẻ và ngân hàng phát hành thẻ để kiểm tra tính hợp lệ của thẻ và kiểm tra khả năng thanh toán của thẻ. Nếu mọi điều kiện đều phù hợp, ngân hàng phát hành thẻ sẽ gửi thông tin ngược trở về cho Acquirer, thông tin được giải mã gửi về cho người bán và việc thanh toán được thực hiện. Tiền sẽ được chuyển từ thẻ tín dụng của người mua tới tài khoản bán hàng merchant account trên Acquirer, sau đó sẽ được chuyển vào tài khoản ngân hàng của người bán.

Phí cho việc thanh toán trực tuyến:

- Thông thường việc mở Internet merchant account không tốn phí

- Việc sử dụng phần mềm ứng dụng payment gateway thường có phí cài đặt ban đầu từ vài chục đến vài trăm đô la và phí duy trì hàng tháng khoảng vài chục đô la

- Trong mỗi giao dịch thanh toán qua mạng, các acquirer sẽ thu phí khoảng từ 1.5% đến 4% giá trị giao dịch và khoảng từ 0.3$ cho tới 0.5$ phí xác nhận thông tin thẻ/lần giao dịch

- Ngoài ra, nếu có sai sót trong quá trình thanh toán hoặc bị thẻ tín dụng giả, người bán phải chịu thêm chi phí chargeback khoảng vài chục đô la.

Việc tiến hành thanh toán qua mạng có thể tiến hành đơn giản hơn bằng cách sử dụng dịch vụ của bên thứ ba (Third Party) chịu trách nhiệm mọi khâu thanh toán, người bán chỉ cần liên kết phần shopping cart của mình vào website của nhà cung cấp dịch vụ, mọi khâu từ việc nhập thông số thẻ, xử lý thanh toán đều thực hiện tại website của nhà cung cấp dịch vụ, người bán không cần mở merchant account, không cần sử dụng paymentgateway, giảm được các chi phí này nhưng chi phí trên mỗi giao dịch sẽ cao hơn

Theo V.E.C
 
Theo mình nghĩ, những kiến thức căn bản thế này bạn chỉ cần giới thiệu link để mọi người tham khảo. huuquynh muốn tạo nơi để trao đổi, thảo luận thì đúng hơn nhỉ ? Mặt khác, bác huuquynh cũng nên mở màn bằng một vấn đề cụ thể, ví dụ: về hạ tầng, thị trường hay tâm lý mua hàng, rồi sau đó ta bắt đầu ném đá, chọc ngoái vấn đề.
 
E nghĩ bình luận trao đổi gì thì đầu tiên mình phải có những kiến thức cơ bản đã chứ ạ. Mà nếu gửi links thì chưa chắc mọi người sẽ ấn vào để đọc nên e paste luôn và có để links :)
 
Theo mình nghĩ, những kiến thức căn bản thế này bạn chỉ cần giới thiệu link để mọi người tham khảo. huuquynh muốn tạo nơi để trao đổi, thảo luận thì đúng hơn nhỉ ? Mặt khác, bác huuquynh cũng nên mở màn bằng một vấn đề cụ thể, ví dụ: về hạ tầng, thị trường hay tâm lý mua hàng, rồi sau đó ta bắt đầu ném đá, chọc ngoái vấn đề.

:D Em đang tìm hiểu thông tin để bổ sung vào cái gọi là "kế hoạch" của handheld năm tiếp theo, theo như gợi ý tốt của bác NguyenHoang. Do đó, vừa mở khu vực này để mọi người trao đổi, vừa tự tìm kiếm và bổ sung cụ thể. Hôm nay cuối năm, có lẽ tối nay tạm phác thảo và mời mọi người góp tí kiến thức và hiểu biết cũng như nhu cầu của mình!
 
Hôm qua xem thời sự VTV1. Thủ tướng họp với các ngân hàng này nọ, nghe thấy hơi hướng năm tới 2009 sẽ là năm đánh dấu cho thị trường thanh toán phi tiền mặt. HHVN có vẻ đang theo kịp tiến độ của thời đại???!!!
 
Cái này cũng hay và tiện lợi này

VnTopup là dịch vụ nạp tiền vào tài khoản điện thoại di động trả trước qua tin nhắn và số tiền được trừ trực tiếp trong tài khoản của quý khách tại Ngân hàng.
Đến với dịch vụ VnTopup của VnPay, bạn có thể:

  • Nạp tiền vào tài khoản điện thoại di động trả trước bất cứ lúc nào, ở bất cứ nơi đâu từ chính chú dế mà bạn đang sở hữu
  • Có ngay tiền trong tài khoản trong giây lát
  • Không còn gặp phải những phiền toái với thẻ cào như vẫn thường gặp
  • Mang lại cho bạn phong cách tiêu dùng hiện đại, trẻ trung, tiết kiệm, thân thiện với môi trường và đặc biệt an toàn
  • Chiết khấu hấp dẫn
Để sử dụng dịch vụ VnTopup, bạn cần:

  • Có tài khoản của Agribank,Vietinbank, Techcombank, Dongabank, BIDV…
    • Đăng ký dịch vụ tại quầy giao dịch của Bank trên toàn quốc.
  • Là chủ thuê bao của các nhà cung cấp dịch vụ hợp tác với VnTopup, bao gồm Viettel, Mobifone, Vinaphone, Sphone, Evn.
Hướng dẫn sử dụng dịch vụ:

  • Bước 1: Để nạp tiền cho chính chú dế điện thoại của mình, bạn soạn:
NAP MASANPHAM gửi tới 8049
VD: Khách hàng nạp 100.000đ vào tài khoản điện thoại
NAP VN100
[FONT=&quot]•[/FONT] Bước 2: Gửi tin nhắn đến số 8049 để hoàn tất yêu cầu nạp tiền.
Giải pháp thanh toán tối ưu thông qua ĐTDĐ, vậy bạn có thể nạp tiền, chuyển tiền cho bạn bè, người thân một cách an toàn, thuận tiện, không mất nhiều thời gian, đáng tin cậy, dễ dàng, chi phí thấp.

--------------------------------------------------------------
VnPay: Cho cuộc sống của bạn đơn giản hơn!
 
Cái VNTopUp này có giảm giá như mua thẻ trả trước không nhỉ ?
Kiểu mua thẻ trả trước 300k chỉ bỏ 29xk ý .
 
Cái VNTopUp này có giảm giá như mua thẻ trả trước không nhỉ ?
Kiểu mua thẻ trả trước 300k chỉ bỏ 29xk ý .


Theo mình được biết, khi sử dụng VnTopup của VnPay sẽ được hưởng mức triết khấu là 5% cho tất cả các mạng viễn thông di động. ví dụ: bạn nạp 100.000 vào điện thoại thì số tiền trong tài khoản ngân hàng của bạn bị trừ là 95.000. Mình thấy dịch vụ này tiện ích, an toàn và tiết kiệm thời gian lắm đó. Bạn dùng thử đi.
 
Thanh toán trực tuyến

Một trong các công cụ giúp thương mại điện tử phát triển là các công cụ thanh toán.
Tôi cũng có nhiều may mắn khi được ngó ngoáy vài dự án thanh toán thẻ on-line tại Việt nam . Xin phép được chia sẻ một vài điều với anh em hanheldvn.

1. Hiểu cơ bản về kênh phân phối (Distribution Channel)

Khái niệm về kênh phân phối không có gì mới lạ cả. Các bạn có thể tìm hiểu vô vàn kiến thức về kênh phân phối trên internet. Khi chọn kênh phân phối thông qua website hoặc phương tiện điện tử nào đó, bạn không nhất thiết phải từ bổ nguyên tắc kênh phân phối thông thường: Kênh phân phối phải đầy đủ các luồng sau đây

Luồng 1: Luồng thông tin 2 chiều giữa người bán và người mua hoặc đôi khi qua cấp trung gian là đại lý. Luồng thông tin này phải mang lại các thông tin mà người bán muốn truyền tải đến người mua và phải có phản hồi ngược lại. Nếu thông tin real-time active thì quá tốt và do vậy luồng này là nơi các bạn ứng dụng được nhiều kiến thức về công nghệ thông tin và truyền thông.

Luồng 2: Chuyển giao sản phẩm. Luồng này đảm bảo sảm phẩm được chuyển giao từ người bán đến người mua. Rộng hơn nữa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Hầu như luồng này áp dụng các phương pháp truyền thống như chở hàng bằng xe bò đến bằng máy bay, giao hàng bằng xe đạp...vv

Luồng 3: Chuyển giao quyền sở hữu và trách nhiệm pháp lý liên quan đến quyền sở hữu sản phẩm giữa 2 bên bán và mua. Riêng phần này liên quan đến luật và các chính sách bảo mật nhiều và hầu như bạn không nên sáng tạo nhiều.

Luồng 4: Thanh toán - Luồng này không phải là tiền đề nhưng đánh giá là quan trọng nhất vì con người có thể đổi hàng - lấy hàng. Tuy nhiên quá lắm cũng chỉ có 10% các giao dịch hàng-hàng trên tổng số giao dịch.

Luồng thứ 5: Chiêu thị - luồng này màu mè nhất và cũng mông lung nhất.

Khi thiết kế một kênh thanh toán, các bạn phải chú ý phân bổ và sắp xếp thật hợp lý các luồng trên để tránh chồng chéo. Thường thì người ta sap như sau:
Thông tin - thanh toán - chuyển giao sản phẩm - chuyển giao quyền sở hữu - chiêu thị

2. Thanh toán thế nào?

Theo phân loại của Master Card có một số loại thanh toán sau:
- Corporate payment hoặc thanh toán công ty: Kiểu này thường dùng để thanh toán tiền điện nước, bưu điện điện thoại. Khi bạn mở một tài khoản ở công ty thanh toán kiểu này, bạn nạp tiền vào tài khoản đó, dùng thanh toán các loại phí kể trên. Công ty này kết nối dữ liệu với các nhà cung cấp và chuyển tiền từ tài khoản của bạn đến tài khoản nhà cung cấp. Bạn và nhà cung cấp không cần gặp mặt mà vẫn thanh toán được.
- POS (point of sale): ATM, trụ sở giao dịch ngân hàng, máy cà thẻ ...vvv. Đặc điểm của kiểu này là bạn phải xuất hiện có mang theo giấy tờ, thẻ, quá trình thanh toán được giám sát dù bằng máy, camera hay bằng nhân viên ngân hàng.
- MobiPay: thanh toán di động thông qua phương tiện di động như điện thoại, tin nhắn trong đó bằng việc quy ước các dẫy số, ký tự bạn xác nhận việc chuyển tiền từ tài khoản này sang tài khoản khác.
- Thanh toán trực tuyến: thông qua cổng thanh toán hoặc một đơn vị trung gian (Paypal chẳng hạn) bạn ra lệnh và xác nhận thanh toán từ tài khoản của mình đến một tài khoản khác.

Vấn đề cốt lõi của thanh toán nằm ở 2 khía cạnh:
Sự thuận tiện của người thanh toán: Người thanh toán càng dễ dàng thanh toán bao nhiêu thì khả năng bán hàng của bạn tăng lên bấy nhiêu. Điều này nên dùng lý thuyết Kênh phân phối hoặc Marketing đẻ giải quyết về lý luận. Ví dụ nếu đến bước thanh toán người dùng phải chuyển đến một trang web khác để thanh toán chắc chắn sẽ không tiện bằng mọi thứ đều thực hiện trên trang web của bạn.
Xác nhận và định danh thanh toán: Bạn phải có các công cụ và tuân thủ một số nguyên tắc chung để đảm bảo rằng người ra lệnh thanh toán (người mua chẳng hạn) có đầy đủ quyền sử dụng hợp pháp số tiền để trả cho bạn. Ví dụ một người ăn cắp số thẻ tín dụng của người khác để thanh toán cho bạn thì nhiều khả năng ngân hàng của người chủ thẻ tín dụng (thật) sẽ từ chối không thanh toán. Lúc đó hàng đi mà tiền thì không đến hay luông sản phẩm hoạt động mà luồng thanh toán thì không.
Nghich lý là ở chỗ, càng thuận tiện thì càng khó xác nhận và định danh thanh toán và ngược lại càng xiết chặt định danh thanh toán thì càng bất tiện cho người thanh toán.

Ngoài ra khi xây dựng luồng thanh toán bạn cũng nên lưu ý đến khả năng hoàn tiền trong trường hợp hủy không mua hàng, trả lại tiền thừa trong trường hợp trả tiền thừa hoặc đổi lấy món hàng ít giá trị hơn, hoặc hủy giao dịch khi chưa kết thúc quá trình phân phối.

Hiện nay, các công ty Việt nam đang phát triển 2 hình thức thanh toán sau đây:
- Thanh toán trực tuyến dành cho thẻ tín dụng và thẻ debit nội đia
- Thanh toán trung gian kiểu prepaid thông qua phát hành thẻ prepaid, ví điện tử

Các hình thức như paypal hiện chưa phát triển được ở Việt nam vì phí cao, tiện ích riêng đặc thù cho thị trường Việt nam chưa có...

Thông tin thêm là bác HQ này có người thân làm ở một công ty thanh toán lớn nhất nhì Việt nam nên có gì anh em cứ PM tìm hiểu.
 
Back
Top